Một trong những bài kinh nổi tiếng trong văn hóa Phật Giáo đó chính là Bát nhã tâm kinh. Vậy Bát nhã tâm kinh là gì? Chúng có ý nghĩa như thế nào? Để có lời giải cho những băn khoăn trên thị chúng ta hãy theo dõi ngay nội dung được trình bày dưới đây.
Bát nhã tâm kinh là gì?
Bát nhã tâm kinh có tên gọi đầy đủ là Bát nhã ba la mật đa tâm kinh. Chúng được biết đến là một bài kinh cơ bản và thịnh hành nhất trong văn hóa Phật Giáo Đại Thừa. Có thể nói, đây là một bài kinh chủ đạo trong Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm có 600 cuốn.
Hiện nay, bài kinh Bát nhã tâm kinh rất phổ biến ở Việt Nam. Chúng được dịch từ tiếng Hán do Trần Huyền Trang, bậc cao tăng vào đời nhà Đường của Trung Quốc sang tận Ấn Độ để thỉnh về. Bài kinh này hiện được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, trong đó có tiếng Việt.
Được biết, bản tiếng Hán gồm có 262 chữ, khi được dịch sang tiếng Việt còn 260 chữ. Theo nhận xét thì đây là một trong những bài kinh ngắn nhất nhưng hàm chứa đầy đủ ý nghĩa của Đạo Phật.
Ý nghĩa Bát Nhã Tâm Kinh
Trong văn hóa Phật giáo, lòng từ bi được lấy làm cốt lõi, từ bi sẽ là ánh sáng của tính không. Mà không có nghĩa là trống rộn, như vậy tất cả chúng sanh là trống rỗng.
Tuy nhiên, Phật giáo Đại Thừa đã đánh giá tính không là một danh từ. Không là vạn sự, vạn sự là không. Điều này có nghĩa rằng: Mọi hiện tượng thân tâm đều không hề được tự tính. Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện. Chúng được xuất phát từ tính không, là không.
Tất cả chúng ta đều có bản tính nguyên sơ là trống rỗng, được giải phóng và thuần khiết. Trong Kinh Bát Nhã có từng đề cập đến: “mọi khổ đau là trống rỗng và sự giải thoát khổ đau cũng là trống rỗng”.
Trong đó, lòng từ bi sẽ là hạt giống trí tuệ hỗ trợ và giúp đỡ chúng sanh bằng tấm lòng vô tận mà không mang gì cả. Lúc này, lòng từ bi chính là sự giác ngộ về bản chất của tánh không trong cuộc sống. Nhờ vậy mới có mối liên hệ giữa trái tim nguyên sơ và sự nhập cuộc.
Bát Nhã Tâm Kinh sẽ truyền tải những thông điệp tốt đẹp. Đặc biệt là trái tim có sự liên kết giữa từ bị và trí tuệ. Được biết, trí tuệ hay Bát Nhã chỉ có thể được sinh ra trong cái tâm an yên, trong sáng và ngập tràn yêu thương.
Có thể nói, Bát Nhã Tâm Kinh sẽ là lời khắc ghi ngắn gọn, súc tích giúp chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự sâu sắc về toàn bộ đời sống tâm linh của mỗi người. Chúng ta có thể cảm nhận được từ thân thể, cảm giác, suy nghĩ, ý thức, ý chí,.. cũng không nằm ngoài tính không.
Chỉ với 260 chữ được dịch thuật rất ngắn gọn, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã góp phần hỗ trợ chúng ta hiểu được những hàm ý cao siêu mà Phật muốn truyền tải. Trong trường hợp, những ai mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về cuốn Bát Nhã Tâm Kinh thì có thể tìm độc bộ Đại Bát Nhã.
Với nội dung chia sẻ về: Bát nhã tâm kinh là gì? Ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh như thế nào? Mong rằng, các bạn sẽ tìm đọc để hiểu hơn cảm nhận được rõ hơn nội dung mà Phật truyền tải.
Nếu như, các bạn đang tìm kiếm địa chỉ kinh doanh tượng Phật được làm từ chất liệu đá phục vụ cho nhu cầu thờ phượng, trưng bày thì hãy đến với Cơ sở Điêu Khắc Đá Mỹ Nghệ Thành Đô. Tại đây sẽ có nhiều mẫu mã, chất liệu bắt mắt để các bạn lựa chọn dễ dàng.
Bát nhã tâm kinh tiếng Phạn
Āryāvalokiteśvaraḥ bodhisattvaḥ gambhīrāyāṃ prajñāpāramitāyāṃ caryāṃ caramāṇaḥ vyavalokayati sma: panca skandhās tāṃś ca svabhāva śūnyān paśyati sma, sarva duḥkha praśmanaḥ
Śariputra rūpān na pṛthak śūnyatā śūnyatāyā na pṛthag rūpaṃ, rūpaṃ śūnyatā śūnyataiva rūpaṃ,evam eva vedanā saṃjñā saṃskāra vijñānam
Śariputra sarvā dharmāḥ śūnyatā lakṣaṇā, anutpannā, aniruddhā, amalā, avimalā anūnā, aparipūrṇāḥ.
Śūnyatāyāṃ na rūpaṃ, na vedanāsaṃjñāsaṃskārāvijñānaṃ.
Na caksuḥ śrotra ghrāṇa jihvā kāya manāṃsi, na rūpa śabda gandha rasa spraṣṭavya dharmāḥ, na cakṣurdhātur yāvan na manovijñānadhatūḥ.
Nāvidyā nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo.
Na duḥkha, samudaya, nirodha, mārgā.
Na jñānaṃ na prāptir, na aprāptiḥ.
Bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya viharaty, acittāvaraṇaḥ, cittāvaraṇanāstitvād, atrasto, viparyāsātikrānto, niṣṭhā nirvāṇaḥ.
Tryadhvavyavasthitāḥ sarvā buddhāḥ, prajñāpāramitām, āśritya, anuttarāṃ samyaksambodhim.
Tasmāj jñātavyam prajñāpāramitā, mahā mantraḥ, mahā vidyā mantraḥ, anuttara mantraḥ, asamasama mantraḥ, sarva duḥkha praśmanaḥ, satyam amithyatvāt.
Prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ, Tadyathā:
Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā.
Theo: TS Huệ Dân
Bát nhã tâm kinh chữ Hán Việt
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Bát nhã tâm kinh bản dịch nghĩa
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)
Bát nhã Tâm kinh bản dịch tiếng Việt
(Thích Tâm Thiện, Sài Gòn, 1998)
Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng
1. Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tịnh của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách.
2. Này người con dòng Sari, hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể. Hình thể là chân không, chân không là hình thể. Cảm xúc, niệm tự và tư duy và ý thức đều là như vậy.
3. Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không, nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm.
4. Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, xúc chạm và hiện hữu. Không có đối đượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh, không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau và không có con đuuờng đưa đến sự chấm dứt khổ đau; không có tri giác cũng không có sự thành tựu tri giác, vì chăng có quả vị của tri giác nào để thành tựu.
5. Người Tỉnh Thức Bình Yên, do sống an lành trong Tuệ giác vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
6. Tất cả chư Phật trong ba đời đều nương tựa vào Tuệ giác vô thượng mà thành tựu chánh giác.
7. Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng:
“Đi qua, đi qua
Đi qua bờ bên kia,
Đã đi qua đến bờ bên kia, reo vui!”